Sự ra đi của người Anh hùng phi công huyền thoại Nguyễn Văn Bẩy, là sự tiếc thương vô hạn của đồng bào, đồng chí, là sự mất mát to lớn của Đảng, Nhà nước, Quân đôi, nhân dân. Trang CS Photo trân trọng đăng bài của Đại tá Đoàn Hoài Trung viết về người Anh hùng, như nén tâm nhang tiễn biệt ông trở về cõi vĩnh hằng ...
THÁNG TƯ VỚI ANH HÙNG PHI CÔNG NGUYỄN VĂN BẢY
Đại tá, phi công Nguyễn Văn Bảy là anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân , đã bắn rơi 7 máy bay Mỹ. Nhưng con đường trở thành phi công chiến đấu giỏi là cả một quá trình phấn đấu gian khổ không mệt mỏi, ông có nhiều kỷ niệm gắn bó với tháng tư …

Tác giả và Anh hùng Phi công Nguyễn Văn Bảy
THÁNG 4 ĐI BỘ ĐỘI VÌ SỢ LẤY VỢ
Ông Nguyễn Văn Bảy tên thật là Nguyễn Văn Hoa, sinh năm 1936, ở xã Hoà Thành, Lai Vung, tỉnh Sa Đéc. Ngày nhỏ ông bị các anh em trêu tên Hoa là tên con gái, xấu hổ quá, ông bỏ tên Hoa lấy tên thứ Bảy là tên chính thức từ đó. Tháng 4 năm 1954, ba của ông ép lấy vợ, ông “hoảng quá”, vội ôm quần áo bỏ nhà theo người bạn tên Lê, đang là bộ đội địa phương. Nửa tháng theo bạn mới được đơn vị nhận chính thức nhờ có ông anh làm xã đội trưởng bảo lãnh. Đêm đầu tiên , được giao cây súng gác đơn vị, ông sung sướng quá, ôm súng đi lại suốt đêm, gác luôn hộ bạn, mặc dù lúc đó ông chưa biết bắn súng làm sao.
Cuối năm 1954, ông tập kết ra Bắc, được học bổ túc, được tham gia làm kinh tế cho đơn vị như đóng gạch, tăng gia chăn nuôi. Nhờ bản tánh cần cù chịu khó, ông luôn được khen thưởng vì thành tích trong lao động sản xuất. Có lần có đoàn khám tuyển phi công đến đơn vị, ông trúng tuyển thế là được đi học trường văn hoá Lạng Sơn. Lao động rất cừ, nhưng đi học là vấn đề hết sức khó khăn với ông, những con chữ, những bài tính rối mù trong đầu, nhiều khi phải học vẹt trả bài thầy. Tháng 2 năm 1960, ông được cùng anh em khoá 2 sang học trường không quân số 3 Trung Quốc. Cùng đi học với ông có các phi công Trần Mạnh (đoàn trưởng), Nguyễn Phúc Trạch, Đồng Văn Đe… Nơi nước bạn, việc học tập của ông lại càng vất vả hơn, trước hết vì ngôn ngữ , sau nữa lý thuyết ngành không quân đòi hỏi trình độ cao mới tiếp thu hết được. Nhưng ông đã tìm mọi cách vượt qua, chăm chỉ học tập rèn luyện, đặc biệt là trong thực hành, ông rất có khả năng bắt chiếc thầy, mọi động tác thầy dạy ông thường luyện tập thành thục, đến mức nhắm mắt lại cũng có thể chỉ từng bảng đồng độ cao, tốc độ,… hoặc thực hiện quy trình mở máy bay thì làm thành thục chẳng kém ai. Hôm đầu tiên được thầy cho thử nổ máy, vừa đề máy nổ pành pành, ông sướng quá thả tay ra vỗ tay đôm đốp. Thầy nắm vội cần lái mắng cho trò một trận nên thân, thầy đâu hiểu được tâm lý trò, từ một anh nông dân xe đạp còn chưa đi rành nay trở thành một phi công làm sao không mừng khi mình được điều khiển máy bay. Những ngày luyện tập lái máy bay YAK-18 thật vất vả với Nguyễn Văn Bẩy. Ông không biết tại sao cứ ngồi lên buồng lái là buồn ói, mà ông ói thật, ói khắp sàn máy nay, ói ra cả mật xanh mật vàng. Ông cố gắng vượt qua cơn ói. Nhiều bạn trong đoàn cũng bị như ông, có người không chịu được phải chuyển sang học phục vụ mặt đất. Còn ông, thì nhớ tới lần Bác Hồ gặp cả đoàn trước khi đi học đã hỏi:
-Chú nào quê ở miền Nam đi học lái máy bay đợt này?
Ông cùng anh em miền Nam giơ tay. Bác Hồ động viên:
-Các chú phải cố học thành tài, để sau này thống nhất đất nước thì lái máy bay chở Bác về thăm đồng bào miền Nam. Đồng bào thấy con em mình ra miền Bắc được ăn học thành phi công thì chắc sẽ vui mừng lắm.
Những điều Bác Hồ căn dặn, đã động viên ông phải quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, không phụ lòng tin yêu của Bác và của đồng bào miền Nam. Ông đã phải cắt nửa ruột quả bóng làm dây treo lên cổ để khi buồn nôn, nôn ra đó khỏi bẩn sàn máy bay, đồng thời tập trung tinh thần khi lái để quên hết việc nôn. Sau này ông chuyển loại sang lái MiG-15, MiG-17 thì mới hết bị nôn mửa .
TRẬN ĐẦU GẶP ĐỊCH
Giữa năm 1965, ông trở về nước tham gia trực ban chiến đấu, nhưng kinh nghiệm không chiến lúc này còn rất hạn chế. Ông nhớ có lần bay cùng biên đội với các phi công, Toại, Lai, Hoàng thì nghe biên đội trưởng phát hiện địch phía trước bèn hô “bắp ngô”, đây là mật ngữ vứt thùng dầu phụ chuẩn bị vào công kích. Ông quên mất ý nghĩa của mật ngữ, nhưng nhìn thấy máy bay đi trước quẳng thùng dầu phụ, ông mới đoán ra ý nghĩa của khẩu lệnh, vội làm theo, nhưng cũng chưa nhìn thấy địch đâu. Mãi đến 7 tháng 10 năm 1965, ông mới được nhìn thấy máy bay địch, ấy là lần ông bay biên đội Quyền, Huyên , Bẩy, Chao lên khu Yên Thế độ cao 3000 mét. Biên đội trưởng Quyền thấy 2 chiếc máy bay F105, vội xin trên cho vào công kích. Ông nhìn thấy 2 thằng địch trước mặt, vội thả thùng dầu phụ tăng tốc nghiêng cánh máy bay định yểm trợ đồng đội, nhờ nghiêng cánh ông phát hiện thấy quả tên lửa sau đít mình do một máy bay khác của địch bám đuôi bắn , ông vội cua gấp máy bay tránh. Quả tên lửa đến quá gần, nổ chói tai phía bên phải. Máy bay bị sức ép tiếng nổ lật ngược, một mảnh đạn bắn vào nắp buồng lái làm mê ca thủng một lỗ. Ông choáng váng, biết máy bay bị thương, nhưng ông vẫn cố ghì cần lái lật ngược máy bay lại. Ông lập tức lấy tay bịt lỗ thủng nắp buồng lái, thì thấy lực hút ra rất mạnh, ông vội rụt tay lại. Nnìn ra phía ngoài chiếc máy bay địch to bè bay sạt qua đầu, ông định đuổi theo, nhưng máy bay của ông lúc này điều khiển rất khó khăn, hơn nữa tốc độ máy bay MiG -17 thấp bằnng nửa máy bay địch làm sao đuổi kịp. Ông nhìn ra phía cánh thấy rất nhiều vết đạn lỗ chỗ. Máy bay mất thăng bằng, chao đảo, Nguyễn Văn Bẩy vội xin phép mặt đất về hạ cánh. Địch lúc ấy đang tập trung đánh sân bay Kép, nên ông phải bay về Nội Bài hạ cánh an toàn. Mọi người ùa ra đón có cả các chuyên gia Liên Xô, khi nhìn thấy chiếc máy bay của ông te tua, trên mình đếm ra đúng 84 lỗ thủng , các chuyên gia phát biểu:” chúng tôi bây giờ mới thấy chiếc máy bay ở tình trạng bị thương nặng như thế này mà về hạ cánh an toàn. Phi công Việt Nam giỏi quá!”. Trận này ông được trên thưởng Huân chương Chiến công hạng 2.Trong trận đánh ngày 4 tháng 4 năm 1965, phi công Trần Hanh đã đúc rút kinh nghiệm, máy bay địch có tên lửa chưa chắc bắn được ta, nếu có bắn thì chưa chắc đã trúng, ta có thể né được. Còn qua trận này ông cùng đồng đội rút thêm kinh nghiệm, nếu bị bắn trúng chưa chắc đã rơi, mà có rơi máy bay thì chưa chắc đã chết vì phi công có thể kịp nhẩy dù. Từ kinh nghiệm ấy củng cố anh em lái MiG-17 không sợ tên lửa địch, vì máy bay MiG-17 thì chỉ có pháo 37 ly và 23 ly .

Đại tá Anh Hùng Phi công Nguyễn Văn Bảy kể lại những kỉ niệm về các trận đánh cho các Phi công trẻ ngày hôm nay
LẤY VỢ THÁNG 4 VÀ CHIẾN CÔNG ĐẦU TRONG THÁNG 4
Đám cưới của ông với bà Trần Thị Niên, cũng đồng hương Sa Đéc là đám cưới lính chiến trường, chỉ trong vòng 15 phút là xong. Tháng 4 năm 1966, ông đang trực ban chiến đấu ở sân bay Kép, thì bà Niên học xong trung cấp tài chính ở Hà Nội, thế là ông xin phép đơn vị cho bà xuống để làm lễ thành hôn. Một mình bà đi xe xuống, không có đại diện nhà gái cũng như cơ quan. Bà xuống, thì ông còn trực chiến ngoài đường băng, anh em cơ quan chính trị trung đoàn phải đưa bà ra địa phương làm giấy đăng ký kết hôn giúp ông. Ông nhớ, lúc ấy ông có đưa 10 đồng cho nhà bếp mua bánh, kẹo và 10 đồng mua 1 tút thuốc lá Thăng Long, còn chè xanh là xin của dân. Buổi chiều rút ban, ông mới nói mọi người:” Tối nay mình cưới vợ, các cậu qua chơi nghen!”. Vào buổi lễ, Trung đoàn phó Đào Công Xưởng làm chủ hôn, đại diện cho nhà trai, còn Tham mưu phó Chu Tất Bộ thì phải đóng giả đại diện nhà gái để tiện thưa gửi hai bên. Anh em ngồi quây quần với nhau bên nồi chè xanh nghi ngút khói. Chưa kịp hút xong điếu thuốc, thì có điện của trên chuẩn bị một biên đội cơ động ngay về Nội Bài. Thế là tiệc cưới giải tán, tất cả lại khẩn trương chuẩn bị lên đường.
Sau bẩy ngày cưới, Ngày 26 tháng 4 năm 1966, biên đội của ông gồm Chung, Tân, Bảy, Mẫn đang hoạt động ở vùng trời Võ Nhai (Bắc Thái), ông phát hiện máy bay địch ở thế có lợi đang bám đuôi hai máy bay của Chung và Mẫn trong biên đội. Ông và Tân đã dũng cảm, nhanh chóng, bất ngờ lao thẳng vào giữa đội hình máy bay địch, làm chúng hốt hoảng tháo chạy. Ông bình tĩnh bám chắc một chiếc, tới cự ly có hiệu quả đã nổ súng, máy bay địch lặn xuống tránh đạn. Ông cho máy bay lật theo và bồi một loạt đạn nữa, máy bay địch bốc cháy rơi tại chỗ. Trong trận này biên đội bắn rơi 2 phản lực Mỹ , bắn bị thương 1 chiếc khác và về hạ cánh an toàn.
Trận đánh mà ông nhớ nhất là trận ngày 5 tháng 9 năm 1966. Lúc này ông đã bắn rơi được vài ba chiếc máy bay rồi, nên trong lễ 2 tháng 9 , ông nhường cho anh em phi công khác trực để lập thành tích kỷ niệm Quốc khánh, nhưng thời gian ấy địch không vào. Hôm ấy ông cùng phi công Võ Văn Mẫn, quê ở Ba Tri, Bến Tre được phân công trực chiến sân bay Gia Lâm. Khoảng 4 giờ chiều, địch cho máy bay Hải quân vào cầu Rẽ, 2 máy bay ta được lệnh cất cánh. Nhưng khi bay vào khu vực thì địch đã rút. Lúc này mặt đất phát hiện một tốp máy địch khác vào Phủ Lý Nam Hà, lập tức sở chỉ huy dẫn hai máy bay ta vào không chiến. Cách địch 15 km, ông đã phát hiện mục tiêu như hai chấm đen trước mặt. Còn cách 5 km, ông ra lệnh cho số 2 thả thùng dầu phụ, tăng tốc đối đầu máy bay địch. Thấy khí thế hùng dũng của ta, hai máy bay địch hoảng loạn vòng phải lợi dụng đám mây chạy trốn. Ông Bẩy thấy vậy thầm tính toán, nếu bám đuôi địch thì khó đuổi kịp được, vì tốc độ địch nhanh hơn, ông quyết định bay cắt đón đường. Ông hô : Số 2 theo tôi. Quả nhiên bay một hồi thì hai chiếc máy bay địch, bọn chúng thần hồn nát thần tính, vừa bay vừa làm động tác uốn éo để tránh đạn của ta, chính vì thế mà bị hạn chế tốc độ . Ông bám ngay chiếc thứ 2 cách khoảng 250 mét xả súng vào buồng lái địch, tên phi công trúng đạn chết tại chỗ, mảnh mê ca văng ra, nhiều mảnh chui theo luồng gió hút cả vào máy bay ông Mẫn. Ông lách ra, ra lệnh cho số 2 vào công kích. Phi công Võ Văn Mẫn bám ngay chiếc máy bay số 1 của địch và nổ súng tấn công. Chiếc máy bay trúng đạn , phi công địch nhảy dù. Hai ông sung sướng quá trở về hạ cánh. Sở chỉ huy nhắc chú ý địch bám đằng sau. Ông Bảy nói vào mic rô:” địch chỉ có hai thằng bị bắn ráo chọi rồi còn đâu nữa”. Tối ấy, Quân chủng báo cáo lên Bộ Quốc phòng, Bộ báo cáo Bác Hồ. Bác có hỏi xem hai đồng chí phi công tên gì, quê ở đâu, biết là cả hai cùng phi công người miền Nam Bác vui lắm và gửi tặng ngay xuống hai huy hiệu của Người.
Ngày 16 tháng 9 năm 1966, 16 chiếc máy bay địch gồm F-4 và F-105 xâm phạm vùng trời Chí Linh (hải Hưng), chúng đã phát hiện một biên đội 4 chiếc máy bay của ta, nên chia thành nhiều tốp, bay ở nhiều tầng, nhiều hướng, giành thế có lợi nhằm kéo ta ra xa, buộc ta phải bị động phân tán để chúng bao vây tiêu diệt ta. Nguyễn Văn Bẩy đã cùng biên đội chủ động, linh hoạt , cơ động, giữ vững đội hình, yểm trợ cho nhau giành thế chủ động, buộc địch chiến đấu ở khu vực ta đã chọn. Toàn biên đội đã chủ động lúc đối đầu, lúc bám đuôi địch, nổ súng kịp thời chính xác, bắn rơi 3 F-4 và trở về hạ cánh an toàn, riêng ông Bảy bắn rơi 1 chiếc.
Trận đánh ngày 24 tháng 4 năm 1967 cũng là trận đánh đáng nhớ của biên đội trưởng Nguyễn Văn Bảy. Trước đó 2 ngày, địch đã đánh nát sân bay Kiến An , nhằm chuẩn bị cho một đợt đánh phá Hải Phòng. Chỉ trong vòng 1 đêm, nhân dân và bộ đội ta đã vá kịp thời hàng chục lỗ bom trên sân bay. Chiều 23 tháng 4, Biên đội Bảy, Bôn, Hôn , Địch chuyển trường từ Gia Lâm xuống sân bay Kiến An. Sáng hôm sau, Biên đội cất cánh lên, vừa tới độ cao 1500 mét đã nhìn thấy máy bay địch như ruồi bay từng bầy trước mặt. Ông Nguyễn Văn Bảy quyết định cho biên đội lao vào giữa đội hình địch. Ông hô lớn:” Tất cả theo tôi” rồi xông vào trận. Máy bay địch thấy MiG-17 của ta thì hoảng sợ, vì chúng cứ yên trí không quân đã bị tiêu diệt hết rồi. Những chiếc cường kích của địch thì ném bom lung tung tháo chạy, còn bọn tiêm kích thì tìm cách bắn tên lửa. Ông Bảy, nhìn ra thấy tên lửa địch bắn như mạng nhện trên trời vậy. Ông có kinh nghiệm khi nhìn thấy máy bay địch trước mặt đeo tên lửa , ông không hoảng hốt mà quan sát, thấy tên lửa địch rơi ra khỏi cánh xịt khói là ông biết nó bắn, lập tức ông ngoặt gấp tránh để tên lửa địch sượt sang bên. Khi bay chiến đấu phần quan sát phía trước, phần quan sát sau lưng, vì thằng địch bám đuôi là ta dễ bị tiêu diệt. Máy bay của địch to xác hơn máy bay ta, tốc độ lớn hơn, nên độ cơ động không linh hoạt bằng. Nếu địch chấp nhận không chiến là máy bay MiG-17 rất có lợi thế cơ động, bán kính vòng lại nhỏ hơn, nhanh hơn so với máy bay địch. Trận nay tuy ông không bắn rơi được chiếc nào, nhưng biên đội bắn rơi 2 chiếc máy bay của địch, phá tan ý đồ đánh phá Hải Phòng của chúng. Bí Thư thành ủy Hải Phòng gửi tặng cho Biên đội 1 chiếc đài hiệu “Mẫu Đơn “ của Trung Quốc.
VÀO QUỐC HỘI THÁNG 4 VÀ NHỮNG LẦN GẶP BÁC HỒ
Tháng 4 năm 1967, ông được bầu vào Quốc hội khoá 3 và được vào đoàn Chủ tịch trong các kỳ họp Quốc hội. Đây cũng là niềm vinh dự cho ông và nhờ đó ông rất nhiều lần được gặp Bác Hồ. ấy là những lần chuẩn bị họp Quốc hội, bao giờ Đoàn Chủ tịch có hội ý trước, Bác Hồ thường đến tham dự cùng. Ông có một câu chuyện muốn kể cho Bác nghe, chẳng là trước khi tập kết ra Bắc, ông có cùng đơn vị đi làm cỏ, sửa sang lại mộ cho cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, thân sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Cao Lãnh. Ngày ấy, mọi người đã nói nhau sau này ra miền Bắc sẽ kể tỉ mỉ việc ấy cho Bác. Tính ông hay rụt dè, nên cứ tìm một cơ hội thật riêng để kể cho Bác nghe, nhưng thật không ngờ cơ hội ấy mãi không còn. Bác Hồ đã ra đi vào ngày 3 tháng 9 năm 1969 , đứng túc trực bên Anh linh của người cùng các đồng chí Trường Chinh, Lê Duẩn, Đàm Quang Trung, mà ông không kìm được nước mắt vì ân hận chưa làm tròn lời hứa đồng đội gửi gắm, nói cho Bác tấm lòng của bà con miền Nam với cụ Phó Bảng và với Bác.
Phi công Nguyễn Văn Bảy tham gia tất cả 13 trận đánh, bắn rơi 7 máy bay Mỹ và chưa một lần nào bị địch bắn cháy máy bay phải nhẩy dù. Ông đã được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, được 7 huy hiệu của Bác Hồ, và 1 đồng hồ đeo tay do Bác Hồ tặng. Ông đã trải qua nhiều cương vị khác nhau trong Quân chủng Phòng không-Không quân như: Trung đoàn trưởng Trung đoàn Không quân 927, Phó tư lệnh Sư đoàn không quân 372 , Sư đoàn trưởng Sư đoàn Không quân 376, Phó tham mưu trưởng Quân chủng Không quân. Ông nghỉ hưu tháng 12 năm 1989, tham gia vào Ban chấp hành Hội Cựu chiến binh thành phố Hồ Chí Minh. Hiện nay ông vẫn là Trưởng ban liên lạc Hội cựu chiến binh Không quân tại thành phố Hồ Chí Minh.
Đại tá ĐOÀN HOÀI TRUNG (Nguyên cựu Phóng viên Báo Phòng không - Không quân)